Profiles của các ngôi sao !

Cửa hàng game Nintendo nShop

Likan

Super Baby Mario
Thành viên BQT
=)) bạn Ashley (ý tớ nói là member) thix Ashley quá nhỉ?
Chỉ thấy Ashley (ý mình nói là diễn viên) đóng vui nhất ở Zack and Cody thui. Còn HSM thì Ashley ko nổi bật bằng Vannessa đâu, mặc dù công nhận vài bài trong HSM của Ashley phải nói rất khó hát mà cô đã diễn rất thành công, khâm phục chỗ đó.

À... sao Ashley cao có 1m60 dzậy... hình như profile có vấn đề é.

:"> mình thix Ashley, đẹp rất quý phái
mình thix Zac, đẹp trai rất manly
mình cũng thix Miley, rất hồn nhiên và trẻ thơ.

=)) nói chung thix hết
 
:)), phát biểu hay đấy Likan :)). Mình thích Vanessa thôi, chị 2 mình mà. còn ở trong HSM thì có bài Bop To The Top Ash hát hay nhất, công nhận lúc đầu chưa xem phim thì thích Ash nhất, nhưng xem rồi càng thích Nessa hơn :D. Còn mấy bạn trong Hannah Montana mình thích mỗi Brenda Song thôi, trông xinh nhất. Vả lại cũng là nv chính :))
 

Likan

Super Baby Mario
Thành viên BQT
Nhầm gòi! Hannah Montana chỉ có Miley Cyrus đóng vai chính thôi, còn Brenda Song đóng vai London Tipton trong Zac and Cody. Phải công nhận là khả năng đóng vai con tỷ phú rất đạt. Giải Best acctress children dành cho cô cũng rất xứng đáng.

>"< ashley vẫn là number one, vannessa không thích cho lắm. Xem phim thì vẫn đồng ý nhân vật Gariella là được, tốt nhưng xét ngoài thực tế kìa. Vannessa đánh bóng tên tuổi là nhờ HSM thôi, ashley là do chính khả năng ca hát.

Ashley >< Vannessa cũng là một thời rồi.

;)) sao không so sánh vụ HOT của Vannessa với vụ HOT của Hoàng Thùy Linh. Mới thấy được bản lĩnh của xứ người.
=)) nhỏ Linh bị thế thì lên TV xin lỗi mới ghê, vậy mà lúc có đoạn băng sex nó lên báo: "em không bao giờ nghĩ đến chuyện yêu đương" éo đỡ được.
Còn vannessa chả cần TV, chả cần ai giúp đỡ, tự họp báo, tự xin lỗi, vẫn đứng lên, ngước mắt nhìn mọi người, chịu đối đầu và KHÁC BIỆT NHẤT :)) là vannessa chả bao giờ cần nhờ phía đại diện của Disney hay Vannessa phải bi lụy thảm thiết điên dại như con bé Linh.
Vannessa cũng chả cần tìm ai tung ảnh vì chả cần phải làm chuyện ruồi đó. Disney vẫn mạnh về kinh tế, mà mạnh kinh tế là mạnh chính trị, đâu nhờ FBI hay CIA can thiệp.
Còn chị Linh nhá =)) CA Hà nội vào cuộc

:)) thấy mới biết "dân chủ" ở đâu?
 

wow_wow

Thành viên lâu năm
sao không so sánh vụ HOT của Vannessa với vụ HOT của Hoàng Thùy Linh. Mới thấy được bản lĩnh của xứ người.
Sao so sánh dc :-" con HTL là một con nhỏ tầm thường :-" Đã thế HTL đã đóng phim chứ ko phải là hình thôi giống như Vannesa, Van chỉ có hình thôi mà :-" Mà dù sao thì 2 con này đều ngu như nhau cả thôi (:|
Van ko cứng như thế đâu :-" bằng chứng là sức khỏe tinh thần nó sau vụ đó cứ như lên trời ấy :-"
 

wow_wow

Thành viên lâu năm
Hilary Duff Profile :x

Hilary Erhard Duff (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1987 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ) vừa là một ca sĩ vừa là một diễn viên. Sau khi tham gia loạt phim truyền hình Lizzie McGuire, cô còn đóng nhiều phim như Cheaper by the Dozen (2003), The Lizzie McGuire Movie (2003), và A Cinderella Story (2004). Hilary còn phát triển trong lĩnh vực âm nhạc, cô đã phát hành 4 album, và sẽ sắp tới sẽ giới thiệu album mới nhất.

Tuổi thơ

Hilary Duff sinh ra ở Houston, Texas là con gái thứ hai của Bob Erhard Duff-chủ một hệ thống bán đồ gia dụng và Susan Colleen Duff-nội trợ. Hilary và chị gái Haylie cùng học diễn kịch. Họ giành được các giải thương địa phương khác nhau. Ở tuổi 8 và 6, chi em nhà Duff tham gia vở ballet The Nutcracker Suite với Columbus Ballet Met ở San Antonio. Chị em họ ngày càng hứng thú với ý tưởng diễn xuất chuyên nghiệp và cuối cùng chị em Duff cùng mẹ đã đi đến California. Ông Bob thì ở lại Houston để chăm lo công việc kinh doanh.

Truyền hình
Trước 2000
Hầu hết các vai diễn đầu tiên của Hilary đều là những vai nhỏ. Khởi đầu là sự xuất hiện trong bộ phim True Women (1997)của hãng Hallmark Entertainment và phim Playing by Heart (1998). Sau đó Hil được nhận vai Wendy trong phim Casper Meets Wendy. Với nhiều vai diễn khác, Hilary nhận được giải thưởng Best Performance in a TV Movie or Pilot (nữ diễn viên phụ)

Lizzie McGuire

Lizzie McGuire
Quản lý và mẹ Hilary đã khích lệ cô thử vai trong bộ phim hài gia đình Lizzie McGuire. Hilary được chọn cho vai chính. Kể từ đây Hilary bắt đầu nổi tiếng, phim Lizzie McGuire có tới 2,3 triệu người xem mỗi tập.

Diễn xuất


The Lizzie McGuire Movie: bản phim điện ảnh của phim truyền hình Lizzie McGuire đã giúp Hilary trở thành thần tượng của tuổi teen. Cheaper by the Dozen I,II: nhờ vào nhiều thành công Hilary đã được chọn đóng vai một trong 12 người con cùng diễn viên hài nổi tiếng Steve Martin. A Cinderella Story: năm 2004 cùng với Chad Michael Murray ngôi sao trẻ đã tạo lên một chuyện tình lãng mạn như nàng Lọ Lem. Raise Your Voice: bộ phim về đề tài âm nhạc rất cảm động. The Perfect Men: bộ phim gia đình về người mẹ độc thân và 2 người con, Hilary đóng vai nguời con tạo ra một người đàn ông hoàn hảo cho mẹ. Từng trình chiếu ở Việt Nam với tên Mr. Hoàn hảo. Material Girl: phim nay còn có sự tham gia của nguời chị Haylie. Không được dánh giá cao, được xem như là sai lầm trong sự nghiệp diễn xuất của Hilary. Footfight!: Hilary lồng tiếng cho nhân vật Sunshine Goodness. War Inc: đóng vai một ngôi sao nhạc pop của châu Âu cùng với diễn viên John Cusack.
Âm nhạc
Single đầu tiên của Hilary là I can't Wait trong nhạc phim của Lizzie McGuire (2002) Santa Clause Lane: album đầu tiên của Hilary. Đây là album tập hợp nhiều ca khúc giáng sinh như Santa Clause lane, Jingle Bell Rock, Last Christmas... Metamorphosis: album thứ hai mang tên một ca khúc trong album. Ca khúc nổi bật của album này là So yesterday đã có tên trong top ten hit lúc đó. Hilary Duff: Hilary cho ra album mang chính tên mình. Có các ca khúc như: Fly, Someones watching over me... Most Wanted: album tổng hợp những bài hát hay và có thêm 4 bài mới là Wake up, Beat of my heart, Super girl và Break my heart. Dignity: album mới nhất phát hành ngày 3 tháng 4 tai Mĩ. Trong single With Love, Hilary đã thay đổi hình tượng của mình, không còn là cô gái teen mà đã trưởng thành. Năm 2007, Hilary Duff vừa tròn 20 tuổi.
Cuộc sống riêng
Hilary bắt đầu hẹn hò với ca sĩ Aaron Carter. Họ đã gặp nhau trong phim Lizzie McGuire mà Aaron tham gia 1 tập phim. Họ hẹn hò trong 1 năm rưỡi sau đó họ chia tay.

Từ năm 2004, Hilary quen với giọng ca chính của nhóm nhạc rock Good Charlotte-Joel Madden. Cuối năm 2006 quan hệ của Hilary và Joel kết thúc

Hilary Duff còn tham gia nhiều hoạt động từ thiện. Hilary là thành viên của tổ chức từ thiện Kids with a Cause.

Công việc khác
Hilary có một nhãn hiệu thời trang mang tên "Stuff by Duff" dành cho lứa tuổi teen.

Gần đây Hilary còn cho ra mắt nước hoa "With love...Hilary Duff".

Các vai diễn Năm Tên Phim Vai diễn Doanh thu trên toàn thế giới
1998 Casper Meets Wendy Wendy n/a
1999 The Soul Collector Ellie n/a
2001 Human Nature Young Lila Jute $705.308
2001-2004 Lizzie McGuire Lizzie McGuire
2002 Cadet Kelly Kelly Collins
2003 Agent Cody Banks Natalie Connors $58.795.814[1]
The Lizzie McGuire Movie Lizzie McGuire/Isabella Parigi $55.534.455[2]
Cheaper by the Dozen Lorraine Baker $190.212.113[3]
2004 A Cinderella Story Samantha Montgomery $74.628.141[4]
Raise Your Voice Terri Fletcher $13.573.284[5]
In Search of Santa Crystal
2005 The Perfect Man Holly Hamilton $19.770.475[6]
Cheaper by the Dozen 2 Lorraine Baker $129.154.341[7]
2006 Material Girls Tanzie Marchetta $12.783.677[8]
2008 Foodfight! Sunshine Goodness TBA
War, Inc. Yonica TBA
2009 Greta Greta


Albums

Năm Album Vị trí trên bảng xếp hạng
Hoa Kỳ Anh Canada Úc Ý
2002 Santa Claus Lane
154
2003 Metamorphosis
1 69 1 19 -
2004 Hilary Duff
2 – 1 6 -
2005 Most Wanted
1 31 1 3 -
2006 4Ever – – – – 14
2007 Dignity
3 25 3 17 8

Các đĩa đơn
Năm Bài hát Album
2003 "Tell Me a Story (About the Night Before)" Santa Claus Lane
2003 "Santa Claus Lane" Santa Claus Lane
2003 So Yesterday Metamorphosis
2004 "Come Clean" Metamorphosis
2004 "Why Not" Metamorphosis
2004 "Little Voice" Metamorphosis
2004 "Fly" Hilary Duff
2004 "Someone's Watching over Me" Hilary Duff
2004 "The Getaway" Hilary Duff
2004 "I Am" Hilary Duff
2004 "Weird" Hilary Duff
2005 "Wake Up" Most Wanted
2006 "Beat of My Heart" Most Wanted
2006 "Supergirl" Most Wanted
2006 "Play with Fire" Dignity
2007 "With Love" Dignity
2007 "Starnger" Dignity

Nhạc phim singles

Năm Bài hát Phim
2003 "Santa Claus Lane" The Santa Clause 2
2003 "What Christmas Should Be"
(trích từ album Santa Claus Lane )
Cheaper by the Dozen
2003 "Why Not" The Lizzie McGuire Movie
2004 "Our Lips Are Sealed"
(với Haylie Duff) A Cinderella Story
 

AsheyTisade

Thành viên lâu năm
>"< ashley vẫn là number one, vannessa không thích cho lắm. Xem phim thì vẫn đồng ý nhân vật Gariella là được, tốt nhưng xét ngoài thực tế kìa. Vannessa đánh bóng tên tuổi là nhờ HSM thôi, ashley là do chính khả năng ca hát.
Đồng ý hai tay , Ash là vô đối ... Tớ xem phim mà chỉ thíck có đoạn của Ash thui.. xem Van hok sướng :D .. Ash cao cóa 1m60 thật đóa nhg trông rất quí phái :) .

@wow_wow : ai bị thế mà chả suy sụp , hay lại nhảy múa hát ca như ko cóa chiện gì :|
 

Likan

Super Baby Mario
Thành viên BQT
đồng ý là có chuyện thì phải suy sụp, nhưng Vannessa đâu cần đến FBI truy tố, đâu cần Disney cho lên Disney Channel xin lỗi. Đúng hông? Cái này gọi là bản lĩnh, HTL và Van đều là con gái, bị chuyện đấy, phim hay hình thì cũng là một, quan trọng là mình có bản lĩnh đứng dậy đối mặt mà không nhờ đến bất cứ "dù lớn" nào hay không mới là tài.

:x Hilary Duff đóng Lizzie McGuire seires hay Lizzie McGuire Movie rất hay, càng lớn càng xinh ra...
Đừng đăng profile cái chị đóng phim... gì mà có chiếc xe đua kiểu cổ ý, quên tên gòi, tên là... hình như là.... Lindsay Lohan :D
 

AsheyTisade

Thành viên lâu năm
Đúng thía Duff đóng Lizzie hay , tối nào tui cũng chờ tới 11h30 để xem sau đó mới là thời gian dành cho DS . Lindsay Lohan tai tiếng nè , đóng cũng hay nhg cái mặt đó nhìn ko khoái , ko kawaii như Duff , Ash , Miley . Sao toàn nữ chiếm số đông thía nhỉ post nam nữa :D
 

Unicorn9x

Nấm nhỏ
film đó là film HerBie Fully Loaded thì phải!! đúng là con pé LiLo tai tiếng thật!! hút chix(nhầm hok chix:))) lag quá trời!! cũng hok khoái con đó lắm!! Khoái Ashley nhất!! đẹp tuyệt vời!! xem film xong hỏi ai cũng bảo thích Ashley hơn!!:D
Hilary Duff hồi trước ú ú nhìn dễ thương lắm!! nhưng mà về sau thấy nó ốm bớt nhìn hok dc đẹp lắm!! đóng film, film nào cũng hay:D
 

AsheyTisade

Thành viên lâu năm
Lucas Grabeel



Website: www.lucasgrabeel.org/ (official - chính thức
Ngày sinh: 23 November 1984 (dân 8X mà trẻ quá )
Nơi sinh: Springfield, Missouri, USA
Tên thật: Lucas Stephen Grabeel
Cao: 5' 8" (1.73 m)
Màu tóc:vàng
Màu mắt: xanh

Thông tin:
Từng học tại trường cấp 3 Kickapoo ở Springfield, Missouri, trường mà superstar Brad Pitt từng theo học!

Đạt hạng 5th tại 52nd MSHSAA Speech & Debate Championships năm 2003.

Đầu 2006, Lucas đã có 3 bài hit lọt vào top ten download nhiều nhất trên iTunes . Trong thời gian đó thì có 6 bài là soundtrack trong High School Musical.

Lucas từng làm nghề quảng cáo 2 tháng trước khi chuyển tới LA, và bộ phim đầu tiên: Halloweentown High, ra mắt khán giả vài tháng sau đó

Trong khi ở Rogersville, Missouri, Lucas đã tham gia đội Harmony Baptist Nhà thờ, nơi anh là thành viên của 1 nhóm trẻ!

Lucas chơi trống cho church và là thành viên của 1 nhóm accapela ở trường Kickapoo.
Từng thử 1 vai trong phim The Young and The Restless


*Các phim đã tham gia:

Actor:

1. High School Musical 2 (2007) (TV) (post-production) .... Ryan Evans
2. Alice (2007) (post-production) .... Lester McKinley

3. "Smallville" .... Young Lex (1 episode, 2006)
... aka Smallville Beginnings (USA: rerun title)
... aka Smallville: Superman the Early Years (UK: promotional title)
- Reunion (2006) TV Episode .... Young Lex
4. Return to Halloweentown (2006) (TV) .... Ethan Dalloway
... aka Halloweentown IV (USA: informal title)
5. "'Til Death" .... Pete Pratt (1 episode, 2006)
- Pilot (2006) TV Episode .... Pete Pratt
6. "Veronica Mars" .... Kelly Kuzzio / ... (2 episodes, 2005-2006)
- Versatile Toppings (2006) TV Episode .... Kelly Kuzzio
- Ahoy Mateys (2005) TV Episode .... Wanna Score Boy
7. High School Musical (2006) (TV) .... Ryan Evans
8. "Boston Legal" .... Jason Matheny (1 episode, 2005)
- Ass Fat Jungle (2005) TV Episode .... Jason Matheny
9. Dogg's Hamlet, Cahoot's Macbeth (2005) .... Charlie/Gertrude/Ophelia
10. Halloweentown High (2004) (TV) .... Ethan Dalloway

Soundtrack:

1. The Fox and the Hound 2 (2006) (V) (performer: "You Know I Will")
2. High School Musical (2006) (TV) (performer: "What I've Been Looking For", "Bop to the Top", "I Can't Take My Eyes Off Of You")


Self:

1. "The Disney Channel Games" (2007) (mini) TV Series .... Himself
2. Macy's Thanksgiving Day Parade (2006) (TV) .... Himself
3. 2006 American Music Awards (2006) (TV) .... Himself - Presenter
4. High School Musical Dance-Along (2006) (TV) .... Himself
... aka High School Musical Dance-Off (Australia)
5. "The Disney Channel Games" (2006) (mini) TV Series .... Himself
6. Totally Suite New Year's Eve (2003) (TV) .... Himself

Blog của Lucas:
 
Avril Lavigne

Thông tin nghệ sĩ
Ngày sinh 27 tháng 9 năm 1984
Quê quán Belleville, Ontario, Canada
Thể loại Rock, Pop Rock, Teen Pop
Nghề nghiệp ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, người mẫu
Năm hoạt động 2002–nay
Hãng đĩa Sony BMG, RCA
Trang web AvrilLavigne.com

Avril Ramona Lavigne (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1984 tại Belleville, Ontario, Canada) là một ca sĩ nhạc rock người Canada.

Năm 2006, cô được tạp chí Canada Business bầu chọn là một trong những người Cananda nhiều quyền lực nhất tại Hollywood. Từ khi khởi nghiệp đến nay, cô đã bán được hơn 32 triệu đĩa hát trên toàn thế giới.

Mặc dù họ tên của cô có gốc tiếng Pháp nhưng Avril không hề nói bất kỳ một từ tiếng Pháp nào. Cái tên Avril Lavigne có nghĩa là “rượu vang tháng tư”.

Avril đã phát hành 3 album sudio: Let Go ( 2002 - bán được 18 triệu bản ), Under My Skin ( 2004 - bán được 12 triệu bản ) và mới nhất là The Best Damn Thing ( 2007 - 5 triệu bản ). Gần đây Avril được kênh truyền hình VH1 xếp vào Top 50 nghệ sĩ sản xuất video ấn tượng nhất.

Tóm tắt tiểu sử
Avril Ramona Lavigne Whibley là ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Canada từng giành 8 giải Juno. Cô được biết đến là một ca sĩ có phong cách trình diễn tinh vi và mạnh mẽ. Khán giả thế giới gần đây được chứng kiến hình ảnh một Avril nữ tính hơn và sâu sắc hơn. Ba album của cô là Let Go (2002), Under My Skin (2004) và The Best Damn Thing đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Avril sinh ra tại Belleville, Ontario. Tài năng âm nhạc của cô sớm được phát hiện khi cô lên 2 tuổi. Năm 1998, Lavigne chiến thắng tại cuộc thi tuyển chọn người hát cùng ca sĩ Shania Twain trong chuyến lưu diễn của nữ nghệ sĩ này tại Canada. Avril xuất hiện trên sân khấu và chiếm được cảm tình của khán giả đồng thời lọt vào mắt của nhà quản lí chuyên nghiệp, ông Cliff Fabri, người là quản lí đầu tiên của cô.

Ở tuổi 16, cô đã được kí hợp đồng thu âm với Ken Krongard, đại diện của hãng ghi âm Arista Records. Hai tháng sau đó cô đã có tác phẩm âm nhạc đầu tay.

Âm nhạc

Album "Let Go" (2002-2004)

Sau khi nhận ra khả năng tiềm tàng của Avril, hãng Arista A&R bắt đầu tung mạng lưới tìm kiếm mở rộng, bắt tay với nhà sản xuất kiêm nhạc sĩ Curt Frasca và Sabelle Breer nhằm giúp giọng ca của cô tỏa sáng hơn nữa.

Ngày 4 tháng 6 Avril cho phát hành album đầu tay mang tên Let Go. Album này nhanh chóng chiếm giữ vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng ở Canada, Úc, Anh và vị trí thứ 2 trên Billboard Hot 200 album của Mỹ. Album này có 4 đĩa đơn rất thành công là: "Complicated", "Sk8er Boi", "I'm with you" và "Losing Grip". Lavigne miêu tả album Let Go như một khát khao của nhạc Rock. Một số bài hát trong đó có xu hướng Rock rõ rệt.

Những thành công từ album đầu tay đã mang lại cho Avril danh hiệu nữ nghệ sĩ trẻ tài năng nhất trong lễ trao giải MTV Video Music Awards năm 2002. Và danh hiệu album bán chạy nhất trong năm 2002 cho nữ nghệ sĩ. Album này cũng lọt vào Top 100 album bán chạy nhất mọi thời đại do website Mediatraffic.de thống kê.

Album "Under My Skin" (2004-2005)
Album thứ hai của Lavigne có tên Under My Skin phát hành ngày 25 tháng 5 năm 2004 tại Mỹ. Trong tuần đầu tiên, nhạc phẩm này đã bán được hơn 380.000 bản tại Hoa Kỳ, đứng đầu danh sách tại các nước như Anh, Đức, Nhật, Úc, Canada, Argentina, Tây Ban Nha, Ireland, Thái Lan, Hàn Quốc và Hong Kong. Hầu hết các ca khúc trong album này Avril Lavigne đều là đồng tác giả. Album này có 4 đĩa đơn khá thành công là: "Don't Tell Me", "My Happy Ending", "Nobody's Home" và "He Wasn't".

Với album này Avril đã giành 2 giải thưởng: Nghệ sĩ Pop/Rock xuất sắc nhất thế giới và Nghệ sĩ người Canada có album bán chạy nhất thế giới trong lễ trao giải World Music Awards 2005. Cô nhận được 5 đề cử giải Juno năm 2005 và giành được 3 giải trong đó có Lựa chọn của fan hâm mộ, Nghệ sĩ của năm và Album nhạc Pop của năm. Tính đến tháng 10 năm 2007, album này đã bán được hơn 12 triệu bản trên toàn cầu.

Năm 2006 Avril Lavigne đã đại diện cho Canada tham dự lễ bế mạc Thế vận hội mùa đông 2006 tại Torino.

Album "The Best Damn Thing" (2007 đến nay)
Ngày 17 tháng 4 năm 2007 Avril Lavigne đã phát hành album thứ 3 mang tên The Best Damn Thing. Trong tuần đầu tiên phát hành, album này đã bán được 784.000 bản tên toàn thế giới. Và đạt vị trí quán quân trên nhiều bảng xếp hạng album ở: Mĩ, Canada, Nhật Bản, Ý, Brazil... Album này đã có 4 single là "Girlfriend", "When You're Gone", "Hot" và "Keep Holding On". Trong đó "Girlfriend" là single thành công nhất.

Cuộc sống
Lavigne có mối quan hệ lãng mạn với tay guitar, Jesse Colburn, trong ban nhạc của mình. Cô coi anh là bạn trai đầu tiên trong cuộc đời. Sau khi chia tay, Colburn rời ban nhạc.

Tháng 2 năm 2004, cô bắt đầu hẹn hò với bạn đồng nghiệp, ca sĩ người Canada, Deryck Whibley, trong ban nhạc Sum 41. Whibley trở thành bạn trai thứ hai của cô. Tháng 6 năm 2005, họ đính hôn. Whibley bất ngờ cầu hôn Lavigne trong một chuyến đi sang Venezia. Hai người đã có một buổi dã ngoại lãng mạn sau đó.

Ngày 15 tháng 7 năm 2006, họ tổ chức một đám cưới đơn giản tại tư trang ở thành phố biển Montecito, California. Lavigne mặc chiếc váy cưới của Vera Wang và mang trên tay những bông hồng trắng. Whibley mặc trang phục của Hugo Boss và được hộ tống bởi 4 phù rể. Có khoảng 110 vị khách quý tham dự buổi lễ.

Các giải thưởng
Những giải thưởng Avril đã đạt được:

-2002
MTV VMA's : nghệ sĩ mới xuất sắc nhất (Complicated).
MTV Latin America VMA's: nghệ sĩ mới xuất sắc.
World Music Awards: Nghệ sĩ Canada xuất sắc và nghệ sĩ Pop/rock.
-2003
ECHO Awards: nghệ sĩ mới xuất sắc
Ivor Novello Awards: Ca khúc của năm (Complicated)
Juno Awards: Album của năm (Let Go), album nhạc pop của năm (Let Go), nghệ sĩ mới, ca khúc của năm (Complicated)
MTV Latin America VMA's: Nghệ sĩ nhạc pop xuất sắc.
MTV Asia Awards: Nữ nghệ sĩ được yêu thích nhất, Nghệ sĩ có bước đột phá, giải phong cách.
Nickelodeon Kids' Choice Awards: Ca khúc được yêu thích nhất (Sk8er Boi), nữ nghệ sĩ được yêu thích nhất.
Radio Music Awards: Ca khúc hay nhất (Complicated).
TMF Awards: Nghệ sĩ rock xuất sắc.
World Music Awards: Nghệ sĩ Canada xuất sắc và nghệ sĩ Pop/rock.
-2004
Comet Music Awards: Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc.
Common Sense Media Award: Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc.
MTV Latin America VMA's: Nghệ sĩ nhạc pop xuất sắc.
MuchMusic Video Awards: Video xuất sắc, Sự lựa chọn của khán giả.
World Music Awards: Nghệ sĩ Canada xuất sắc và nghệ sĩ Pop/rock.
-2005
Juno Awards: Nghệ sĩ của năm, album nhạc pop hay nhất, sự lựa chọn của khán giả
MTV Asia Awards: Nữ nghệ sĩ được yêu thích nhất.
NRJ Music Awards: Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc.
-2006
Italian TRL Awards: First Lady
-2007
MTV Latin America VMA's: Nghệ sĩ nhạc pop xuất sắc, ca khúc của năm (Girlfriend)
MTV Russian Music Awards: Nghệ sĩ quốc tế xuất sắc.
MuchMusic Video Awards: Video xuất sắc, Sự lựa chọn của khán giả.
Teen Choice Awards: Đĩa đơn được yêu thích nhất (Girlfriend).
Nickelodeon Kids' Choice Awards: Ca khúc được yêu thích nhất (Girlfriend), nữ nghệ sĩ được yêu thích nhất.
MTV Europe Music Awards: Nghệ sĩ của năm, Ca khúc yêu thích (Girlfriend).
World Music Awards: Nghệ sĩ Canada xuất sắc và nghệ sĩ Pop/rock.

Một số mốc trong sự nghiệp
Năm 2002
Tháng 6:
Phát hành album đầu tay - Let Go
Tháng 7:
Let Go được trao tặng đĩa bạch kim
Complicated lên #1 tại Billboard Top 40 tracks trong 7 tuần
Tháng 8:
Complicated lên #1 tại Billboard Adult Top 40 chart trong 16 tuần
Complicated lên #1 tại Canada
Sk8erboi bắt đầu xuất hiện trên các chart
Avril tháng giải Best New Artist tại VMA với video Compliacted và biểu diễn lúc mở màn buổi lễ trao gỉai
Let Go được trao tặng đĩa bạch kim thứ 2
Tháng 9:
Let Go nhận được đĩa bạch kim thứ 3
Let Go lên #1 tại LP chart ở Canada
Bài hát "Falling Down" của Avril được chọn làm soundtrack cho bộ phim Sweet Home Alabama
Tháng 10:
Sk8erboi bắt đầu tấn công mạnh trân các chart
Avril thắng giải Best New Artist, international tại MTV Video Music Award Latin America
Tháng 11:
I'm With You bắt đầu có mặt trên các bảng xếp hạng
Tháng 12:
Let Go được trao tặng đĩa bạch kim thứ 4
I'm With You bắt đầu bon chen lên những vị trí cao trong 1 số bảng xếp hãng
Let Go kết thúc 1 năm đầy vinh quang khi đứng #3 trong bảng xếp hạng biggest selling LP of the year với hơn 4,1 triệu dĩa được bán tại Mỹ
Đọc giả của tạp chí Rolling Stone đã bầu chọn Avril là Best Female Performer and Best New Artist.

Năm 2003
Tháng 1:
Avril dẫn đầu bảng xếp hạng LP của UK trong 3 tuần
Let Go nhận đĩa bạch kim thứ 5
Avril biểu diễn tại chương trình Saturday Night Live
Avril thắng 3 giải tại MTV Asia Awards
Tháng 2:
I'm With You thật sự tấn công mạnh trên các chart
Avril được đề cử 5 giải cho Grammy 2003 bao gồm Song of the Year, Best Female Pop Vocal Performance ("Complicated"), Best Pop Vocal Album (Let Go), Best Rock Vocal Performance - Female ("Sk8er Boi"), và Best New Artist. Avril cũng đã biểu diễn tại lễ trao giải.
I'm With You lên #1 tại Billboard Adult Top 40 trong 10 tuần
Tháng 3:
Avril xuất hiện trên bìa tạp chí Rolling Stone.
Tháng 4:
Losing Grip bắt đầu xuất hiện trên các chart
Avril thắng 4 giải tại June Awards gồm Single of the Year ("Complicated"), Album of the Year, Pop Album of the Year (Let Go), New Artist of the Year và được đề cử ờ 2 hạng mục khác
Avril bắt đầu tour diễn đầu tiên của mình ở Montreal
Avril thắng giải Favorite Song ("Sk8er Boi") tại Nickelodeon Kids' Choice Award
Let Go được trao đĩa bạch kim thứ 6
Tháng 5:
Losing Grip lọt vào Top 10 1 vài chart
Tháng 6:
Avril thắng 2 giải Best International Video by a Canadian ("Sk8er Boi") và People Choice Award for Favorite Canadian Artist tại Much Music Awards
Tháng 7:
"I Dont Give" của Avril được chọn làm soundtrack cho bộ phim American Wedding
Tháng 8:
I'm With You được đề cử 2 giải Best Female Video và Best Pop Video tại VMA
Tháng 10:
Avril chiến thắng tại World Music Award cho giải thưởng Best Canadian Pop/Rock Artist.
Avril chiến thắng tại Radio Music Awards với giải thưởng Song of the Year - Modern Adult Contemporary Radio ("Complicated").
Tháng 11:
Avril được đề cử cho giải Favorite Pop/Rock Female Artist tại AMAs
Phát hành DVD My World

Năm 2004
Tháng 2:
Avril được đề cử 3 giải tại Grammy bao gồm Best Female Pop Vocal Performance, Song of the Year (songwriter) ("I'm With You" with The Matrix), and Best Rock Vocal Performance - Female ("Losing Grip").
Tháng 4:
Don't Tell Me bắt đầu có mặt trong các bảng xếp hạng
Tháng 5:
Don't Tell Me bắt đầu leo cao lên các bảng xếp hạng
Avril biểu diễn tại Saturday Night Live
Avril phát hàng album thứ 2 Under My Skin
Tháng 6:
Under My Skin debut ngay tại vị trí số 1 trên Billboard Top 200
Albums và bán được 381,000 bản tại Mỹ trong tuần phát hành đầu tiên
Under My Skin cũng giữ ngôi vị quán quân tại UK và Canada
Tháng 7:
My Happy Ending bắt đầu đặt những bước chân đầu tiên lên các bảng xếp hạng
"Knocking On Heaven's Door" của Avril được chọn vào LP Unity - Thế vận hội năm 2004 tại Athens
Under My Skin được trao tặng đĩa bạch kim
Tháng 8:
"I Always Get What I Want" được chọn làm soundtrack cho bộ phim The Princess Diaries 2: Royal Engagement
My Happy Ending bắt đầu tạo nên 1 làng sóng trên các chart
"Don't Tell Me" được đề cử cho giải Best Pop video tại VMAs
Tháng 9:
Avril 1 lần nữa chiến thắng tại World Music Award cho giải Best Pop/Rock Artist
Tháng 10:
My Happy ending lên #1 13 tuần tại Đài Loan và #1 trên Billboard Mainstream Top 40 cùng #1 một số chart khác
Single "Don't Tell Me" được trao đĩa vàng tại Mỹ
Nobody's Home bắt đầu xuất hiện thay thế cho My Happy Ending trong các chart
Tháng 11:
Avril được đề cử giải Favorite Pop/Rock Female Artist tại AMAs.
Under My Skin được trao tặng đĩa bạch kim thứ 2
Single My Happy Ending được hiệp hội RIIA (Mỹ) trao tặng đĩa vàng
Tháng 12:
Nobody's Home bắt đầu có tên trên nhiều chart

Năm 2005
Tháng 1:
"My Happy Ending" được trao tặng đĩa bạch kim
Tháng 2:
"He Wasn't" bắt đầu xuất hiện
Tháng 3:
Nobody's Home được trao tặng đĩa vàng
Tháng 4:
Avril giành 1 giải tại Kid's Choice Award cho danh hiệu Favorite Female Singer
Tháng 5:
"He Wasn't" lên #1 tại Canada
"Fall To Pieces" có mặt trên 1 vài charts nhỏ ở Mỹ
Tháng 6:
Avril đính hôn với Deryck Whibley của Sum 41
Tháng
"Fall to Pieces" lọt vào World Adult Top 20 và Top 20 của Billboard Adul

Năm 2006 đến nay
Tháng 4: Ngày 17 tháng 4: phát hành album thứ 3, The Best Damn Thing.Đây là một album nhạc rất sôi động, dễ nghe với nhiều ca khúc do chính Avril sáng tác. Mặc dù không được giới phê bình âm nhạc đánh giá cao như 2 album trước nhưng album này vẫn rất thành công về số lượng đĩa bán ra. Đạt vị trí quán quân ở nhiều chart trên thế giới như: Mí, Canada, Anh, Nhật Bản...
Tháng 5: Ngày mùng 5, đĩa đơn đầu tiên Girlfriend đạt vị trí quán quân tại Mĩ. Girlfriend trở thành single thành công nhất của Avril từ trước đến nay khi đạt được nhiều vị trí cao ở khắp các bảng xếp hạng âm nhạc danh tiếng trên thế giới ( No.1 tại: Australia, Austria, Bulgaria, Canada, France, Italy, Ireland, Netherlands, New Zealand, Sweden, U.S., United World Chart....) và được MTV Asia bình chọn là Artist of The Month
Tháng 7:Phát hành single thứ 2 là When You're Gone tại Mĩ .Đây là một single khá thành công của Avril, single này đã đạt được vị trí quán quân trên một số chart ở: Singapo, Malaysia, Trung Quốc,vị trí thứ 6 tại United World Chart...Ca khúc When You're Gone cũng rất thành công trên sóng phát thanh của Việt Nam khi nhiều ngày liên tục chiếm giữ vị trí đầu bảng của Hot ten at ten. Đáng tiếc là single này chỉ đứng ở vị trí 24 tại Billboard hot 100 của Mĩ.
Tháng 10: Phát hành single thứ 3 mang tên Hot.
Tháng 11: Avril thắng lớn trong lế trao giải MTV Châu Âu 2007 khi giành được 2 giải quan trọng là nghệ sĩ solo xuất sắc và ca khúc hay nhất (Girlfriend)
 

Likan

Super Baby Mario
Thành viên BQT
Arvil thì Likan có cảm tình chứ không mến mộ, cảm phục tài năng và là ca sỹ trẻ không có tai tiếng, scandal nào.

Bài Girlfriend của Arvil nghe rất hay, thành top hit, nhưng nó chỉ hợp tư tưởng với phương tây là.... cướp bồ của bạn.
Bài Girlfriend là bài cổ vũ điều này => pó tay cho lắm, đa số chúng ta nghe nhạc là để thưởng thức nhạc điệu nhưng phải hiểu lởi của bài hát mới được. Video Clip bài này cũng dễ hiểu mà nhiều người xem vẫn ko hiểu :-?? bó tay
 

wow_wow

Thành viên lâu năm
ôi tớ thix bài Hot của Avril vô cùng :x Lời bài ca nào của Avril cũng nâng cao chính bản thân mình lên một mức độ cao :D. Còn mấy bài buồn thì các bạn để ý đi Avril ko bao giờ là nhân vật chính trong đó mà toàn nói về người khác (khôn ghê :)) )
Đừng đăng profile cái chị đóng phim... gì mà có chiếc xe đua kiểu cổ ý, quên tên gòi, tên là... hình như là.... Lindsay Lohan
Lilo ấy mà làm sao đăng dc , Hilary với Lilo từng 1 thời tranh giành Aaron Cater đấy nên giận nhau lun :D
Duff lúc béo béo nhìn dễ xương hơn ... gầy nhìn hok khoái
Hilary Duff hồi trước ú ú nhìn dễ thương lắm!! nhưng mà về sau thấy nó ốm bớt nhìn hok dc đẹp lắm!! đóng film, film nào cũng hay
hĩ béo như bộ phim Điệp viên Cody thì tớ ko chịu nổi _ _! THực ra tớ love béo lẫn gầy. share mọi người 1 vài tấm hình gầy (thực ra người ta bảo là vừa vặn ấy) cho các bạn thay đổi wan điểm này :D




 

Beyoncé Knowles

Beyoncé Giselle Knowles (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1981) là một ca sĩ nhạc R&B, nhạc sĩ, diễn viên, vũ công và nhà thiết kế thời trang người Mỹ. Beyonce bắt đầu nổi tiếng khi cô tham gia và trở thành trưởng nhóm Destiny's Child, nhóm nhạc nữ thành công nhất mọi thời đại[1][2][3].

Sau một loạt thành công mang tính thương mại với nhóm nhạc mà cô gắn bó lâu năm, Knowles phát hành album solo đầu tay mang tên Dangerously in Love vào năm 2003. Album trở thành một trong những thành công lớn nhất của năm, đứng đầu tại các bảng xếp hạng nước Mỹ và Anh quốc. Trong album này có các ca khúc đoạt vị trí cao trên các bảng xếp hạng là "Crazy in Love" và "Baby Boy" đem về cho Beyoncé 5 giải thưởng Grammy vào năm 2004. Album thứ hai của Knowles, B’Day, được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 4 tháng 9 năm 2006 tiếp tục thêm vào danh sách thành tựu to lớn của cô. Các ca khúc "Déjà Vu", "Ring the Alarm" và "Irreplaceable" đều chiếm ngôi vị cao tại các bảng xếp hạng đĩa đơn danh tiếng.

Beyonce cũng bước sang nghiệp điện ảnh với vai diễn Deena Jones trong phim Dreamgirls. Bài hát Listen của cô nhận được đề cử bài hát hay nhất trong phim của giải Oscar và Quả Cầu Vàng (Golden Globe). Cô cũng được đề cử Quả Cầu Vàng cho danh hiệu Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất nhưng không giành được giải.

Sự nghiệp âm nhạc:
Dangerously in love
Năm 2003, Beyonce ra mắt album solo đầu tiên của cô, Dangerously in Love. Lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200 với 317.000 bản bán ra trong tuần đầu tiên, album được phong tặng là album bạch kim chỉ sau 3 tuần phát hành. Dangerously in Love còn nằm trong danh sách của bảng xếp hạng album ở Anh, Canada, Hà Lan, Đức, Hy Lạp và Philippines. Tổng cộng album này đã bán được hơn 4 triệu bản tại Mỹ và hơn 11 triệu bản trên toàn thế giới. Khi đĩa đơn và album của cô đồng thời đoạt thứ hạng cao trên các bảng xếp hạng tại hai quốc gia Anh và Mỹ, cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên đạt danh hiệu cao quý Thành tựu nhân đôi này kể từ năm 1983 trở lại đây. Trước đó, vào thập niên 1960 và 70, ban nhạc Beatles, Simon & Garfunkel, và Rod Stewart cũng từng đoạt danh hiệu này. Ngay lập tức, Beyoncé trở thành một trong những nghệ sĩ có nhạc phẩm bán chạy nhất năm 2003.

Tại lễ trao giải Grammy 2006, Knowles giành một giải thưởng trong hạng mục "Phong cách trình diễn R&B xuất sắc nhất cho song ca hoặc nhóm nhạc" cho ca khúc "So Amazing" hát chung với tevie Wonder.

B'Day
Album thứ hai của Knowles có tên gọi B’Day được phát hành trên toàn thế giới vào ngày 4 tháng 9 năm 2006, trùng với ngày sinh nhật lần thứ 25 của cô và tại Mỹ sau đó 1 ngày. Chỉ trong vòng tuần đầu tiên, album đã bán được hơn 541.000 bản tính riêng tại Mỹ, ngay lập tức trở thành album số 1 đem về cho cô danh hiệu Album có doanh số cao nhất trong tuần đầu. Beyoncé trở thành một nghệ sĩ hát solo có tiếng xinh đẹp và tài năng vượt qua cả nữ ca sĩ nhạc Pop Christina Aguilera vốn cũng rất thành công trên thị trường âm nhạc

Đĩa đơn chủ đạo của album là "Déjà Vu" trở thành một hit hàng đầu tại nước Mỹ. Các bảng xếp hạng nhạc R&B của Hoa Kỳ và Anh quốc tràn ngập tên của Beyoncé. Báo chí nhắc đến cô như một hiện tượng âm nhạc đối với đại bộ phận giới trẻ.

Cuộc sống riêng tư
Về cuộc sống riêng tư, Beyonce hiện đang là bạn gái của rapper Jay-Z từ năm 2002. Họ chưa hề một lần lên tiếng công bố chính thức mối quan hệ của mình trước công chúng bởi Beyonce khẳng định rằng việc công bố như thế chẳng có ích lợi gì cho mối quan hệ của họ. Cô ca sĩ thể hiện mong muốn được sớm xây dựng gia đình và có những đứa con với người tình Jay-Z còn anh chàng ca sĩ đồng nghiệp của cô thì tỏ ra không quá mặn mà với ước mơ "ngôi nhà và những đứa trẻ".


Danh sách các đĩa nhạc
Album
2003: Dangerously in Love
2006: B'Day
2008: Album thứ 3
EP
2004: True Star: A Private Performance
2007: Green Light: Freemasons EP
2007: Irreemplazable
DVD
2004: Live at Wembley
2006: Beyoncé The Ultimate Performer
2007: B'Day Anthology Video Album
2007: The Beyoncé Experience Live!
[sửa] Tour lưu diễn
2003–2004: Dangerously in Love World Tour
2004: Verizon Ladies First Tour (với Alicia Keys và Missy Elliott)
2007: The Beyoncé Experience

Đĩa đơn quán quân
Năm Đĩa đơn Vị trí cao nhất[4][5][6]

2003 "Crazy in Love" (featuring Jay-Z) 1 1 2 6 21 1 1
"Baby Boy" (featuring Sean Paul) 1 2 3 4 8 4 3
2006 "Check on It" (featuring Slim Thug) 1 3 5 11 32 6 2
"Déjà Vu" (featuring Jay-Z) 4 1 12 9 23 5 8
"Irreplaceable" 1 4 1 11 10 4 1
2007 "Beautiful Liar" (với Shakira) 3 1 5 1 1 1 2
Tổng 4 3 1 1 1 2 2

Quả là con người quá thành công :em29:
 

Likan

Super Baby Mario
Thành viên BQT
^^ mấy con số
2003 "Crazy in Love" (featuring Jay-Z) 1 1 2 6 21 1 1
"Baby Boy" (featuring Sean Paul) 1 2 3 4 8 4 3
2006 "Check on It" (featuring Slim Thug) 1 3 5 11 32 6 2
"Déjà Vu" (featuring Jay-Z) 4 1 12 9 23 5 8
"Irreplaceable" 1 4 1 11 10 4 1
2007 "Beautiful Liar" (với Shakira) 3 1 5 1 1 1 2
Tổng 4 3 1 1 1 2 2
Ý nghĩa của nó là gì :D
 
À, mấy cái xếp hạng của các nước, từ trái sang phải là Mỹ, Anh, Aus, Đức, Pháp, Châu Âu, Thế Giới

_________________
Justin Timberlake
Justin Randall Timberlake (sinh ngày 31 tháng 1 năm 1981) là một ca sĩ nhạc Pop/R&B và diễn viên người Mỹ. Anh bắt đầu nổi tiếng khi tách khỏi ban nhạc 'N Sync và cho ra mắt hai album solo Justified (2002) và Future Sex/Love Sounds, trong đó thành công hơn là album thứ 2 với 3 đĩa đơn đầu tiên là Sexy Back, My Love và What Goes Around...Comes Around đều đứng hạng nhất trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ.



Justin Timberlake chịu ảnh hưởng lớn từ hai ca sĩ gạo cội của nền âm nhạc Mỹ, anh nói:

“ Tôi thật may mắn khi sinh ra sau thời của Michael Jackson và Madonna bởi vì như thế có nghĩa là tôi có cơ hội xem họ hát và học hỏi ở họ".
Thời niên thiếu
Anh sinh ra ở Memphis,Tennessee,Hoa Kỳ.Cha là Randall Timberlake và mẹ là Lynn nee Bomar. Cha mẹ Justin ly hôn vào khoảng năm 1985 và cả 2 đều đã tái hôn. Bà Bomar hiện đang điều hành công ty JustinTime Entertainment đã tái hôn với Paul Harless- mộ ông chủ nhà băng. Khi Justin 5 tuổi thì cha anh đã co 2 đứa con với người vợ thứ 2-Lisa. Một người em của Justin mất vào năm 1997 và được đề cập đến trong bài My Angel in Heaven.

Justin Timberlake lớn lên ở Millington một thị trấn nhỏ phía Bắc Memphis. Năm 1993, Justin bắt đầu nổi tiếng khi tham gia vào hàng ngũ của The Mickey Mouse Club. Ở đây còn có sự tham gia của Britney Spears, Christina Aguilera và JC Chasez (thành viên ban nhạc 'NSYNC sau này). Sau khi show này kết thúc, Justin cùng người bạn JC, Lou Pearlman,Chris Kirkpatrick thành lập nhóm nhạc. Đượ biết đến với tên gọi 'NSYNC.

Phong cách hát và điệu nhảy của Justin có phần ảnh hưởng từ thần tượng là Michael Jackson.


Sự nghiệp âm nhạc

1995-2002: 'NSYNC
Justin là thành viên nhóm nhạc 'NSYNC. Nhóm thành lập năm 1995 và bắt đầu sự nghiệp ca hát năm 1996. Nhóm phát hành 2 album No Strings Attached vào năm 2000, Celebrity năm 2001. Năm 2002, nhóm quyết định tan rã. Justin bắt đầu sự nghiệp solo.


Justified
2002-2004: Justified
Tháng 8-2002, sau nhiều tháng thu âm, Justin trình diễn tại MTV Video Music Awards 2002 đồng thời ra mắt single đầu tiên Like I Love You trong album solo đầu tiên Justified. Chiếm được vị trí 11 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100.Các Single khác gồm: Cry Me A River và Rock Your Body.


2002-2006: Cộng tác và diễn xuất
Vai diễn đầu tiên của Justin là vai một nhà báo trong phim Edison Force (Cớm Đen). Sắp tới Justin sẽ xuất hiện trong nhữnng phim như Alpha Dog, Black Snake Moan, Richard Kelly's Southland Tales và lồng tiếng vua Arthur trong phim hoat hình Shrek the third sẽ chính thức giới thiệu vào hè năm 2007. Timberlake cũng xuất hiện trong vai Elton John lúc trẻ trong video của ông "This Train Don't Stop There Anymore".

Sau đó, Justin tiếp tục thu âm với nhiều nghệ sỉ khàc. Sau "Where is the love?", anh tiếp tục cộng tác với Black Eyed Peas bài My styles trong album Monkey Business. Ngoài ra còn có: "Work it" - Nelly, "Signs" với Snoop Dogg.


FutureSex/LoveSounds 2006
2006-nay: FutureSex/LoveSounds
Timberlake tham gia vào video "Promiscuous" của Nelly Furtado và Timbaland. Sau dó, phát hành album solo thứ hai FutureSex/LoveSounds vào ngày 9 tháng 12 năm 2006. Album dược thực hiện từ năm 2005, sản xuất bởi Timbaland, will.i.am, Rick Rubin và chính Timberlake. Single dầu tiên Sexy Back rất thành công nối tiếp là My love đều chiếm những vị trí cao trong các bảng xếp hạng.

Album này được đề cử một giải Grammy quan trọng là album của năm thế nhưng đã để lọt giải vào nhóm nhạc Dexie Chicks với album Taking the Long Way.


Công việc khác
Ngoài ca hát, Justin còn mở một nhà hàng ở Hoa kỳ. Cùng với người bạn thời thơ ấu Trace Ayala thành lập nhãn hiệu William Rast gồm những bộ quần áo đẹp mắt dành cho giới trẻ.

Cuộc sống riêng
Justin từng là bạn trai của Britney Spears, bạn thuở nhỏ. Nhưng họ chia tay vào năm 2002 vì Timberlake cho rằng Britney là người không chung thuỷ. Jusitn còn viết bài Cry me a river để nói về Britney. Cả cuộc chia tay này cũng được đưa vào single What goes around.. comes around.

Justin bắt đầu hẹn hò với Cameron Diaz từ năm 2003 và kết thúc vào cuối năm 2006. Có tin đồn Justin đang hẹn hò cùng Scarlett Johansson sau khi Scarlett tham gia vào video clip nóng bỏng "What goes around..." của Justin
Đĩa đơn hợp tác
2002: "Work It" (Nelly hợp tác với Justin Timberlake)
2003: "Where is the Love?" (Black Eyed Peas hợp tác với Justin Timberlake)
2005: "Signs" (Snoop Dogg hợp tác với Charlie Wilson & Justin Timberlake)
2007: "Give It To Me" (Timbaland hợp tác với Nelly Furtado & Justin Timberlake)
2007: "Night Runner" (Duran Duran hợp tác với Justin Timberlake)

Góp giọng
2001: "My Kind Of Girl" (with Brian McKnight, from Superhero)
2001: "What It's Like To Be Me" (with Britney Spears, from Britney)
2002: "How Come You Don't Call Me (Remix)" (with Alicia Keys & N.E.R.D, from Songs in A Minor : Special Re-Release)
2003: "Where Is the Love?" (with The Black Eyed Peas, from Elephunk) - Though he didn't receive vocal credits.
2003: "Hootnanny" (with Bubba Sparxxx, from Deliverance")
2004: "Good Foot" (with Timbaland, from theShark Tale soundtrack)
2004: "Headsprung (Remix)" (with Keri Hilson)
2004: "Signs" (with Snoop Dogg)
2005: "My Style" (with The Black Eyed Peas, from Monkey Business)
2005: "Floatin'" (with Charlie Wilson & will.i.am, from Charlie, Last Name Wilson)
2006: "Loose Ends" (with Sergio Mendes, Pharoahe Monch & will.i.am, from Timeless)
2006: "My Style (DJ Premier Remix)" (with The Black Eyed Peas, from Renegotiations: The Remixes

Năm Album Tên video Đạo diễn
2002 Justified Like I Love You Diane Martel
2002 Justified Cry Me A River Francis Lawrence
2003 Nellyville Work It
(Nelly feat. Justin Timberlake) Joseph Kahn
2003 Justified Rock Your Body Francis Lawrence
2003 Justified Señorita Paul Hunter
2003 Live From London I'm Lovin' It Paul Hunter
2005 R&G (Rhythm & Gangsta): The Masterpiece Signs
(Snoop Dogg feat. Charlie Wilson & Justin Timberlake) Paul Hunter
2006 FutureSex/LoveSounds SexyBack Michael Haussman
2006 FutureSex/LoveSounds My Love
(feat. T.I.) Paul Hunter
2007 FutureSex/LoveSounds What Goes Around... Samuel Bayer
 
Rihanna

Robyn Rihanna Fenty (sinh ngày 20 tháng 2 năm 1988) là một nữ ca sĩ da màu người Barbados. Dòng nhạc cô hát chủ yếu thuộc thể loại Pop, R&B và Dance. Rihanna bắt đầu được thế giới biết đến nhờ một số ca khúc thành công như SOS, Unfaithful vào năm 2006 và gần đây nhất là ca khúc Umbrella thành công vang dội tại thị trường âm nhạc thế giới

Tiểu sử

Những năm thiếu thời
Rihanna sinh ra tại xứ đạo thánh Michael trên quốc đảo Caribbean thuộc Barbados. Là con cả trong gia đình 3 anh em. Cô theo học trường cấp I, II tại Barbados nơi cô cùng hai bạn chung lớp lập nên một nhóm nhạc 3 người. Đến năm 2004 tài năng ca hát của cô nở rộ. Trong một cuộc thi của trường cô đang theo học mang tên “Colours of Combermere School” hồi tháng 11 năm 2004, cô đã hát ca khúc “Hero” của Mariah Carey.

Thần may mắn đã mỉm cười với Rihanna ở tuổi 15 khi một trong những người bạn giới thiệu cô với nhà sản xuất âm nhạc Evan Rogers, ông này đến Barbados trong một kì nghỉ với vợ. Rogers đã cùng với đối tác của ông là Carl Sturken giúp Rihanna ghi âm thử tại Mĩ. Sau đó ông gửi đến các công ty ghi đĩa hát trong đó có Def Jam. Tại công ty này Rihanna đã có buổi thử giọng và đã kí kết một hợp đồng khi cô mới 16 tuổi.


Sự nghiệp ca hát
Album đầu tay của Rihanna mang tên Music of the sun ra mắt tháng 8 năm 2005 trong đó có ca khúc dẫn đầu “Pon de replay”, đứng thứ 2 tại các bảng xếp hạng đĩa đơn của Mỹ và Anh. Đĩa đơn thứ hai với tên gọi “If it is lovin’that you want” không thu được nhiều thành công như ca khúc trước nhưng cũng nằm trong top 20 tại một số nước. Album của ca khúc nằm trong top 10 tại Canada và Mĩ và trong top 40 tại Anh. Ca khúc này mới nhận được giải đĩa kim ở một số quốc gia và giải Vàng tại Mỹ. Để quảng bá rộng rãi cho album, Rihanna đã lưu diễn với danh ca Gwen Stefani. Hơn 500,000 bản ở Mỹ và 2 triệu được bán ra trên khắp thế giới.

Trong năm 2006, Rihanna tham gia một số hợp đồng quảng cáo trong đó có cả Nike và J.C. Penney. Cô đã cho ra 2 ablum mới A Girl Like Me vào tháng 4 năm 2006, 8 tháng sau album đầu tiên của cô. Album này đứng vị trí thứ 5 tại Mĩ và thứ 6 tại Anh. Ca khúc đứng đầu “SOS” được sử dụng trong quảng cáo của hãng Nike. Bài hát trở thành ca khúc số một của Rihanna trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 đồng thời là ca khúc nằm trong bảng xếp hạng Hot Digital Songs. “SOS” đứng đầu tại Úc và đứng thứ 2 tại Anh. Đĩa đơn thứ hai mang tên “Unfaithful” là một bản ballad nhịp chậm miêu tả cảm xúc của một cô gái tội lỗi khi cô lừa bạn trai của mình. Ca khúc này chiếm vị trí thứ 3 trong top 10 tại các bảng xếp hạng Mĩ và Anh (sau đó đứng vị trí thứ 2 sau “Hips don’t lie” của Shakira). “A girl like me” là album bán chạy nhất của Rihanna từ trước tới nay và giành giải đĩa kim do RIAA bầu chọn.

Ngày 25 tháng 7 năm 2006, Rihanna đã xuất hiện trong show truyền hình “All My Children” biểu diễn ca khúc “S.O.S” và “Kisses Don’t Lie”. Ngày 31 tháng 7 năm 2006 Rihanna nhận 2 đề cử cho giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất và Nghệ sĩ được khán giả yêu thích nhất cho video “SOS (Rescue Me)” tại lễ trao giải MTV Video Music Award Rihanna đã đặt bước chân đầu tiên vào nền điện ảnh bằng vai diễn phụ trong “Bring It On: All or Nothing”. Bộ phim này được ra mắt vào 8 tháng 8 vừa qua.

Đĩa hát

Album

Good Girl Gone Bad' (2007)2005: Music of the Sun
2006: A Girl Like Me
2007: Good Girl Gone Bad

Đĩa đơn
2005: "Pon de Replay"
2005: "If It's Lovin' That You Want"
2006: "SOS"
2006: "Unfaithful"
2006: "We Ride"
2006: "Break It Off" (featuring Sean Paul)
2007: "Umbrella" (featuring Jay-Z)
2007: "Shut Up and Drive"
2007:"Don't Stop The Music"
2007:"Hate That I Love U" ( featuring Ne - Yo)
 

Bình luận bằng Facebook

Pokémon Center

Pokémon Center Việt Nam

Cộng đồng Facebook của NintendoVN

Top