☢ Play Station Portable

  • Lượt xem Lượt xem: 794
  • Cập nhật mới nhất Cập nhật mới nhất:

Cửa hàng game Nintendo nShop



  • Phát triển: Sony Computer Entertainment
    Chế tạo: Sony
    Sản phẩm chung dòng: Playstation
    Loại: máy chơi trò chơi cầm tay
    Thế hệ phát hành: 7
    Ngày phát hành:

    • JP: December 12, 2004
    • NA: March 24, 2005
    • BR: March 24, 2005
    • INA: March 24, 2005
    • EU: September 1, 2005
    • Asia: September 1, 2005
    • Africa: September 1, 2005
    • AU: September 1, 2005
    Thời gian phát hành: 2004-2014
    Ngưng sản xuất:

    • NA: January 2014
    • JP: June 2014
    • PAL: December 2014
    Doanh số phát hành toàn cầu: 82 triệu( November 2013)
    Media: UMD, thẻ nhớ gắn ngoài
    Hệ điều hành: PlayStation Portable system software
    CPU: 333 MHz MIPS R4000
    Bộ nhớ trong: 32 MB (PSP-1000); 64 MB (2000, 3000, Go, E1000)
    Lưu trữ: Memory Stick Duo, Memory Stick PRO Duo / PSP Go: Memory Stick Micro (M2)
    Hiển thị: 480 × 272 pixels với 16,777,216 màu, 30:17 widescreen TFT LCD
    PSP Go: 3.8 in (97 mm)
    những mẫu khác 4.3 in (110 mm)
    Âm thanh: Stereo speakers, Mono speaker (PSP-E1000), microphone (PSP-3000, PSP Go), 3.5 mm headphone jack
    Kết nối: Wi-Fi (802.11b) (except PSP-E1000), IrDA(PSP-1000), USB, Bluetooth (PSP Go)
    Dịch vụ mạng: PlayStation Network

    Trọng lượng:
    PSP1000: 280 grams (9.9 oz)
    PSP2000/3000: 189 grams (6.7 oz)
    PSP GO: 158 grams (5.6 oz)
    PSP E1000: 223 grams (7.9 oz)

    Trò chơi bán chạy nhất: Monster Hunter Portable 3rd (4.6 triệu) (May 6, 2011)

    Tương thích ngược: PSone (download only)
    Tiền nhiệm: PocketStation

    Kế nhiệm: PlayStation Vita

    Lịch sử

    Sony lần đầu tiên công bố phát triển PlayStation Portable tại một cuộc họp báo trong E3 2003. Mặc dù mô hình không có mặt tại cuộc họp báo. Sony đã phát hành các chi tiết kỹ thuật mở rộng về hệ thống mới. Sau đó, Giám đốc điều hành của Sony Computer Entertainment là Jose Villeta đã gọi thiết bị là "Walkman của thế kỷ 21" khi nói đến khả năng đa phương tiện. Một số trang web game đã bị ấn tượng bởi khả năng của thiết bị và đặt nhiều mong đợi lên tiềm năng của hệ thống chơi game này.

    Nintendo đã thống trị thị trường cầm tay kể từ khi ra mắt Game Boy vào năm 1989, với đối thủ cạnh tranh duy nhất là Game Gear của Sega (1990-1997), cũng như WonderSwan của Bandai (1999-2003) tại Nhật Bản. Các sản phẩm sau này của cả SNK và Nokia cũng không thể cắt giảm được thị phần của Nintendo. [PSP] được gọi là "đối thủ cạnh tranh hợp pháp đầu tiên đối với sự thống trị của Nintendo trên thị trường cầm tay".

    Những hình ảnh đầu tiên của PSP xuất hiện vào tháng 11 năm 2003 tại Sony Corporate Strategy Meeting, cho thấy một PSP với các nút phẳng và không có cần analog. Mặc dù một số người tỏ ra quan ngại về việc thiếu phím điều khiển, những nỗi sợ này đã chấm dứt khi PSP chính thức được công bố tại cuộc họp báo Sony trong E3 2004. Ngoài việc công bố thêm chi tiết về hệ thống và các phụ kiện của nó, Sony cũng đã phát hành danh sách 99 công ty phát triển, cam kết hỗ trợ cho thiết bị cầm tay mới. Một số bản demo game PSP, chẳng hạn như Metal Gear Acid của Konami và Wipeout Pure của SCE Studio Liverpool cũng được trình chiếu tại hội nghị.

    Phát hành ra thị trường

    Vào ngày 17 tháng 10 năm 2004, Sony thông báo rằng PSP sẽ ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 12 tháng 12 năm 2004, với mức giá 19.800 Yên (khoảng 181 đô la Mỹ năm 2004) cho bản thường và 24.800 ((khoảng 226 đô la Mỹ năm 2004) cho bản Value System. Việc ra mắt giao diện điều khiển mới là một thành công với hơn 200.000 chiếc được bán trong ngày đầu tiên. Các vỏ màu sắc khác nhau cũng được bán trong gói, chi phí cao hơn khoảng 200 đô la. Sony công bố vào ngày 3 tháng 2 năm 2005, rằng PSP sẽ được bán ở Bắc Mỹ vào ngày 24 tháng 3 năm 2005, chỉ suy nhất một cấu hình US $ 249 / CA $ 299. Một số người chơi tỏ ra lo ngại về mức giá cao này, cao hơn gần 20 USD so với giá tại Nhật Bản và cao hơn 100 USD so với Nintendo DS mới ra mắt. Mặc kệ quan ngại, việc ra mắt tại Bắc Mỹ của PSP vẫn thành công, mặc dù hai tuần sau đó Sony cho biết máy không bán được nhiều như dự kiến mặc, khoảng 500.000 chiếc đã được bán trong hai ngày đầu tiên.

    PSP khởi đầu sự xuất hiện đồng thời tại Bắc Mỹ khởi động bằng hệ PAL, nhưng vào ngày 15 tháng 3 năm 2005, Sony thông báo rằng việc ra mắt hệ PAL sẽ bị trì hoãn vì nhu cầu cao về giao diện điều khiển ở Nhật Bản và Bắc Mỹ. Một tháng sau, vào ngày 25 tháng 4 năm 2005, Sony thông báo rằng PSP sẽ tiếp tục ra mắt bằng hệ PAL vào ngày 1 tháng 9 năm 2005, với giá € 249 / £ 179. Sony giữ giá, cao hơn gần 100 USD so với Bắc Mỹ, bằng cách chỉ ra rằng người tiêu dùng Bắc Mỹ phải trả thuế bán hàng địa phương và thuế VAT cao hơn ở Anh so với Mỹ. Mặc dù giá cao, việc ra mắt thành công vang dội, bán được hơn 185.000 chiếc tại Anh, bán hết toàn bộ cổ phiếu trên toàn nước Anh trong vòng ba giờ sau khi ra mắt, tăng hơn gấp đôi kỷ lục doanh số bán hàng đầu tiên của 87.000 cái được thiết lập bởi Nintendo DS. PSP cũng đạt được thành công lớn ở các khu vực khác với hơn 25.000 đơn vị được đặt hàng trước tại Úc và gần một triệu đơn vị được bán trên khắp châu Âu trong tuần đầu tiên.

    Thiết kế và đặc điểm kĩ thuật

    PlayStation Portable được Shin'ichi Ogasawara (小笠原伸一) thuộc Sony Computer Entertainment thiết kế. Thiết bị dài 170 mm, rộng 74 mm, dày 23 mm và nặng 280 gram (bao gồm cả pin). Nó được trang bị một màn hình Samsung TFT LCD 4.3 inch (trước đó là của Sharp) với tỷ lệ 16:9 và độ phân giải 480x272 pixel với 16,77 triệu màu và có 4 chế độ hiệu chỉnh ánh sáng, chế độ sáng nhất chỉ có thể kích hoạt khi máy đang cắm nguồn A/C.

    Bộ vi mạch xử lý chính của PSP là một thiết bị đa chức năng mang tên "Allegrex" với CPU dựa trên MIPS32 R4k 32-bit, cùng với một đơn vị tính toán dấu phẩy động (Floating Point Unit), và một đơn vị tính toán dấu phẩy động véctơ (Vector Floating Point Unit). Hệ thống còn bao gồm 32 MiB RAM chính và 4 MiB DRAM phụ cùng chip đồ hoạ 166 MHZ có 2 MiB bộ nhớ hỗ trợ.

    PSP được biết đến rộng rãi bởi các dòng mã (PSP-1000, PSP-2000, vv). Đĩa trò chơi PSP không phân mã vùng, tuy nhiên, hầu hết các đĩa phim đều có mã hóa vùng và do đó sẽ chỉ hoạt động trên thiết bị thích hợp.

    PSP được bán trong bốn cấu hình chính khác nhau trong đó phụ kiện được bao gồm. Gói Base Pack (được gọi là Core Pack ở Bắc Mỹ) gồm máy, pin và dây sạc. Phiên bản này đã có mặt tại Nhật Bản và sau đó được phát hành ở Bắc Mỹ và châu Âu.

    Gói Value Pack bao gồm mọi thứ trong gói Base Pack, thêm thẻ nhớ Memory Stick Pro Duo 32 MB, tai nghe có bộ điều khiển từ xa, túi đựng và dây đeo cổ tay. Một số khu vực có phiên bản sửa đổi của gói này bao gồm các phụ kiện khác nhau.

    Nhiều phiên bản giới hạn của PSP bao gồm nhiều phụ kiện, trò chơi hoặc phim khác nhau cũng đã được phát hành.

    Ổ đĩa quang

    PlayStation Portable sử dụng một ổ đĩa quang tương thích với định dạng đĩa Universal Media Disc do Sony độc quyền sản xuất. Sử dụng ổ đĩa sẽ làm tiêu tốn 10% năng lượng của pin và hệ máy đã bị phê bình là có tốc độ truyền dữ liệu quá chậm, trên 2 phút đối với một số game. Tuy nhiên nhựơc điểm này đã được khắc phục với hệ PSP mới được cải tiến cho phép kéo dài tuổi thọ pin và tốc độ truyền tải dữ liệu nhanh hơn.

    Điều khiển

    Trái với khả năng chơi nhạc và xem phim, PSP có các phím điều khiển chỉ chuyên dùng để chơi game (khác với các phím điều khiển thông thường của các máy nghe nhạc MP3 hay điều khiển TV điển hình): hai phím bên vai (góc trên bên trái và phải của thiết bị, phím L và R), các phím bấm đặc trưng của hệ máy PlayStaion (tam giác, vuông, tròn và X), phím Bắt đầu (Start) và Chọn lựa (Select), một nhóm 4 phím di chuyển (lên - tới, xuống - lùi, sang trái, sang phải), và một phím đa chiều cho phép xoay tròn (Analog stick). Ngoài ra còn có các phím hiệu chỉnh phụ nằm thành một hàng ngang bên dưới màn hình, dùng để điều khiển âm lượng, hiệu chỉnh nhạc (bật hay tắt âm thanh khi chơi game hoặc chọn lựa các chế độ âm thanh đã được cài đặt trước bao gồm Unique, Heavy, Pop, Jazz và Off), chỉnh độ sáng màn hình, và một phím "Home" để truy cập menu chính của hệ thống. Nhấn phím "Home" trong khi chạy bất kì chương trình gì (trừ chơi game hoặc sử dụng ứng dụng) sẽ hiên lên giao diện menu chính (còn gọi là XMB) cho phép truy cập các chương trình khác, tuy nhiên bất kể người dùng đang chạy chương trình gì thì hệ thống sẽ tự động thoát khỏi trình đó ngay lập tức để chuyển sang trình mới đã được chọn từ XMB.

    Pin

    Thời gian sử dụng của pin mặc định dùng cho PlayStation Portable (công suất 1800 mAh) thay đổi tuỳ theo chức năng sử dụng: từ 3 giờ khi kết nối mạng không dây với màn hình ở độ sáng cao nhất đến hơn 11 giờ khi nghe nhạc với màn hình tắt. Một loại pin khác với công suất 2200 mAh có khả năng kéo dài thời gian sử dụng như trên thêm 20%. Bên cạnh đó còn có chế độ "ngủ" chỉ tiêu thụ năng lượng ở mức tối thiểu mà vẫn giữ cho RAM của hệ thống hoạt động, nhờ đó cho phép khởi động nóng. Nếu ở trạng thái ngủ, hệ thống chỉ tiêu tốn 1% năng lượng pin trong vòng 24 giờ.

    Tại E3 2007, một vài chi tiết mới về PSP Mỏng đã được Sony tiết lộ, bao gồm tin cho biết thế hệ PSP mới này sẽ có pin được cải tiến, cụ thể pin sẽ mỏng hơn với công suất 2200 mAh so với 1800 mAh của những máy PSP thông thường. Tuy nhiên, thông tin này không còn chính xác khi Sony giới thiệu hệ máy mới được biết đến với tên PSP Mỏng & Nhẹ trên thực tế sử dụng pin có công suất nhỏ hơn với 1200 mAh tuy nhiên thời gian sử dụng vẫn dài bằng PSP cũ. Pin cũ (1800 mAh) vẫn tương thích với máy mới nhưng nếu sử dụng thì sẽ không vừa với nắp đậy mới và Sony đưa tin rằng hãng đang xem xét lại việc này.

    Giao diện

    Giao diện menu chính của PSP có tên gọi "XrossMediaBar" (XMB), giao diện này cũng được đưa vào các TV mới nhất của Sony, thiết bị thu video/ ghi DVD kĩ thuật số PSX (DVR) và hệ máy PlayStation 3. Bao gồm chuỗi các biểu tượng được xếp thành một hang ngang với 6 mục chính là Thiết lập, Hình ảnh, Âm nhạc, Video, Trò chơi, Internet. Khi được kích hoạt sẽ hiện ra thêm một cột các biểu tượng phụ có liên quan.

    Hệ thống XMB cho phép người dùng thay đổi các thiết lập, kết nối thiết bị với máy tính thông qua cổng USB, kết nối và truy cập Internet, xem phim, nghe nhạc và chơi game. XMB có thể được truy cập bất cứ lúc nào bằng cách ấn phím "Home", đồng thời hệ thống sẽ tự động thoát khỏi các ứng dụng đang chạy do giới hạn về bộ nhớ trong.

    Màu mặc định của nền (gồm 12 màu) sẽ thay đổi lần lượt vào mỗi tháng trong năm (ở chế độ mặc đinh). Người dùng cũng có thể tuỳ chọn màu sắc hay thay đổi hình nền được lưu ở thẻ nhớ ngoài Memory Stick (đối với phần mềm hệ thống phiên bản 2.00 trở lên). Phần mềm hệ thống (Firmware) phiên bản 3.70 hoặc cao hơn còn kèm theo phần mềm thiết lập dao diện cho phép người dùng tự do sáng tạo, thay đổi mọi thứ thuộc giao diện (các biểu tượng và hình nền) tuỳ theo ý thích thông qua máy tính. Hiện có 10 giao diện chính hãng gồm: Lemmings, Wipeout, Cookies, Pink, và 6 giao diện khác nhau dựa trên tựa game Pursuit Force.

    Phát triển Homebrew và tùy chỉnh phần mềm

    Vào ngày 15 tháng 6 năm 2005, tin tặc đã phân tích được bản mã của PSP và phân phối nó trực tuyến. Ban đầu, PSP được sửa đổi cho phép người dùng chạy mã tùy chỉnh và số lượng phần mềm hạn chế. Sony đã phản ứng lại bằng cách liên tục nâng cấp phần mềm. Homebrew là các ứng dụng PSP tùy chỉnh bao gồm các loại tính năng khác nhau bao gồm máy tính, điều khiển từ xa, quản lý tập tin, mô phỏng android, vv. Theo thời gian, mọi người có thể mở khóa phần mềm và cho phép người dùng chạy nhiều nội dung và phần mềm tùy chỉnh hơn

    Gỉa lập

    PPSSPP, hiện là trình giả lập PSP nhanh nhất và tương thích nhất, có sẵn trên nhiều nền tảng - bao gồm các nền tảng di động như iOS, Android, Windows và Mac. Tất cả các trò chơi chính hiện có thể chơi với trình giả lập.

    Tiếp nhận

    Dòng PSP nhận được đánh giá tích cực ngay sau khi ra mắt và hầu hết các nhà phê bình đều trích dẫn những điểm mạnh và điểm yếu tương tự.
    CNET đánh giá 8.5/10 và ca ngợi phần cứng mạnh mẽ, khả năng đa phương tiện của giao diện điều khiển trong khi than phiền việc thiếu bảo vệ màn hình hoặc bảo vệ trên bề mặt đọc của UMD.
    Engadget hoan nghênh thiết kế của PSP, nói rằng "nó chắc chắn là một thiết bị cầm tay nhỏ gọn, được thiết kế tốt".
    PC World khen ngợi quyết định của Sony bao gồm khả năng tích hợp Wi-Fi , nhưng lại chỉ trích việc thiếu trình duyệt web khi chạy, các vết lóa và vết bẩn xuất phát từ bề mặt sáng bóng của bàn điều khiển.
    Hầu hết các nhà đánh giá cũng ca ngợi màn hình lớn và sáng của bàn điều khiển, khả năng phát lại âm thanh và video.

    Chiến dịch quảng cáo gây tranh cãi
    • Sony thừa nhận vào cuối năm 2005 đã thuê nghệ sĩ graffiti phun sơn quảng cáo cho PSP tại bảy thành phố lớn của Hoa Kỳ bao gồm New York, Atlanta, Philadelphia và San Francisco. Thị trưởng thành phố Philadelphia đã đệ đơn xin từ chức. Theo Sony, họ đã trả tiền cho các doanh nghiệp và chủ sở hữu tòa nhà để có quyền phun các bức tường.
    • Vào năm 2006, Sony đã vận hành một chiến dịch poster ở Anh. Một trong những thiết kế poster với khẩu hiệu "ake a running jump here" đã được gỡ bỏ từ khỏi trạm xe điện Manchester Piccadilly do lo ngại rằng nó có thể khuyến khích tự sát.
    • Vào tháng 7 năm 2006, tin tức quảng cáo được phát hành ở Hà Lan, miêu tả một phụ nữ da trắng đang nhấc cằm một phụ nữ da đen, nói rằng "PlayStation Portable White is coming." Rất dễ nhận thấy đây là quảng cáo phân biệt chủng tộc. Mục đích của các quảng cáo là để đối chiếu các phiên bản màu trắng và đen của máy. Những quảng cáo này không bao giờ được phát hành ở phần còn lại của thế giới, và gây tranh cãi dữ dội.
    • Sony đã gây tin đồn quảng cáo giả mạo vào 12 năm 2006 với những người đóng giả là các blogger trẻ, tuyệt vọng vì muốn có trong tay 1 cái PSP. Trang web đã được đăng ký và tạo bởi St. Louis, Missouri, công ty quảng cáo Zipatoni thay mặt cho Sony, trước khi nó bị gỡ xuống
    -------------------------------------------------------------------------
    Bài viết của thành viên Kame-Hino
Top